Thứ Năm, 24 tháng 7, 2014

Thư mặt trận từ nhà văn Ngô Thảo

“Hành trình về phương Đông” là công trình nghiên cứu nghiêm trang với nhiều dữ kiện được đoàn khoa học, gồm các chuyên gia hàng đầu của Hội Khoa Học tôn thất Anh ghi nhận một cách đầy đủ nhất. Suốt hai năm trời rong ruổi đến các đền chùa Ấn Độ, họ đã có được cái nhìn sâu sắc về khoa học thượng cổ và bí truyền của văn hóa Ấn Độ như yoga, thiền định, thuật chiêm duyên, nghiệp báo, luật nhân quả...

“Hành trình về phương Đông”: Tìm sự thanh thản trong tâm hồn

“Hành trình về phương Đông” của Baird T. Spalding.

Đọc xong “Hành trình về phương Đông”, tự nhủ, sao mấy người Âu - Mỹ lại rành về xứ mình - phương Đông thế. Chợt nhớ đến nhà văn nổi danh người Đức Hermann Hesse (giải Nobel Văn học 1946 với chùm tác phẩm “Câu chuyện dòng sông”, “Hành trình về phương Đông”…). Xuất thân từ một gia đình tuyên giáo, ba má của Hesse đều nhận nhiệm vụ của Hội truyền đạo Basel (Áo) hoạt động tại Ấn Độ. Nhiều độc giả Việt Nam ham đọc “Tuổi trẻ cô đơn” của Hesse vào những năm 70, 80 thế kỷ trước. Hesse và Baird T. Spalding là những nhà văn, nhà nghiên cứu phương Tây trước tiên tìm-hiểu-được-phương-Đông.

Tinh tế làm sao, khi tác phẩm “Hành trình về phương Đông” của Hesse cũng như của Baird T. Spalding đều hướng về phương Đông, để tìm sự thảnh thơi bình yên trong tâm hồn.

Từ từ nuốt đứt những trăm năm.

(Rút từ tập "Vòng quay", NXB Hội Nhà văn 2013)

Đều đều kêu nhạt tanh

Viên Mai (1716-1798), nhà phê bình thơ nức danh đời Thanh (Trung Quốc) có câu: “Hễ làm thơ, có vượt qua ý cũ một bước mới hay”. Tôi cho rằng, câu này vận đúng với trường hợp bài "Đồng hồ"!

Phạm Đình Ân mới đây góp vào chủ đề quen mòn ấy, tưởng chẳng còn gì để tìm tòi, ngẫm nữa. Bài thơ tránh không động tới chữ “thời gian”, chừng như chỉ để tả chân cái công cụ đo thời gian. Và thực ra bài thơ chỉ có hai dòng, song được ngắt dòng một cách hợp lý. Kim giây vận chuyển đều đều, được trình bày “nhạt tanh” để nói đến cái khách quan, thế tất của thiên nhiên. Thần thái bài thơ nằm ở câu kết: Ngậm miệng/từ từ nuốt đứt những trăm năm. Cảm nhận như thế về thời kì là tỉnh ngủ đến tận cùng mà thật độc đáo. Đọng lại ở người đọc, có thể là sự nhớ tiếc, cũng có thể là thúc giục, hối hả chạy đua với thời kì để đáng sống một đời dẫu là ngắn ngủi trên cõi thực.

Lời bình của Phạm Quang Đẩu:

Thời gian trong vật lý học là khái niệm trừu tượng, phức tạp, còn trong cuộc sống thường ngày lại rất cụ thể, liên quan đến kí vãng, hiện tại, tương lai, hoặc sinh-lão-bệnh-tử mỗi đời người. Vào Google: “thơ về thời kì”, trong giây phút hiện tới gần 100 bài, đa số là bài hay, như của Văn Cao (thời gian qua kẽ tay/Làm khô những chiếc lá); của Trương Nam Hương (Mời em vào quán thời gian/Khuấy ly ký ức uống làn hương xưa); của Anh Ngọc (thời gian trôi rất mau/Là thời gian dưới gốc cây họp mặt); của Nguyễn Khoa Điềm (Con gõ kiến đại ngàn/Gõ nhịp thời gian); của Đoàn Phú Tứ (Trời mây phảng phất nhuốm thời gian)…

“Thẳng thắn” thế, vẫn còn là sự ưng được, bởi ai cũng có quyền như vậy, được như vậy, và có cả quyền “làm thơ” về chuyện đó. Nhưng “thẳng đuột” như những câu thơ sau thì đã nhuốm màu dung tục, vì đem chuyện phòng the, khoe chuyện phòng the lên trên trang giấy trắng: “Em muốn đủ thứ trên đời... Nhưng muốn nhất về đêm/ Quay qua thấy em trăn trở hãy biết đường ôm chặt nhé/ Thấy nhõng nhẽo hãy biết đường xoa nhẹ/ Lên trên chỗ em nhõng nhẽo và... Hư” (Chồng à! Em muốn...).

Cũng là trao gửi trong ái tình mà cô gái trong “Hương thầm” kín đáo, tế nhị, còn “em” ở đây, “thẳng thắn” quá. Vì thế mà có những câu tả thực thế này: “Yêu khổ quá hay ta đừng yêu nữa/ Đừng thơm lên má em và nói: nữa nè/ Đừng luồn tay trong ngực em và mân mê…” (Hay là…).

Tên tập thơ lấy tên một bài thơ, bài thơ ấy có hai câu khai mạc được ngắt ra theo thể 5 chữ: “Anh ngủ thêm đi anh/ Em phải dậy lấy chồng”. Hai câu này theo tôi là không hay, nhưng hai câu sau lại rất được: “Mùa thu vừa rụng lá/ Lòng em đã sang Đông”. Cũng trong bài này có những câu thô: “Nhưng anh đã không thể/ Mạnh mẽ để làm chồng/ Cởi áo mà không dám/ Mặc cho em váy hồng?”. Các bạn cứ đặt thử những câu thơ này bên cạnh bài thơ “Hương thầm” của Phan Thị Thanh Nhàn sẽ thấy ngay thế nào sự tinh tế trong thơ. “Cô gái” trong “Hương thầm” chủ động đi trao tình ái: “Giấu một chùm hoa trong chiếc khăn tay/ Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm”. Ái tình là địa hạt của sự thánh thiện khôn xiết. Cả hai “tình trong như đã mặt ngoài còn e”, họ để con tim thổ lộ tỏ bày nên không cần nói. Nếu nói thì lại chẳng có sự thật tình. Hương bưởi đã trở nên sứ thần kết nối tình ái với ái tình? Nhưng có lẽ đúng hơn chăng, nó đã trở thành hương tình để “lòng bối rối”…?!

0 nhận xét:

Đăng nhận xét